tư vấn bao la vạn sự

Vòng luân hồi

Vòng luân hồi

Cập nhật : 05/07/2014
Luân hồi là một vòng xoay của sinh ra, sống trên đời, chết, tái sinh không chỉ trong Đạo Phật, mà cũng theo những tôn giáo khác như Đạo Ấn, Đạo Bön, Đạo Kỳ Na, Đạo Sikh, và những tôn giáo khác của Ấn Độ. Trong ngôn ngữ hiện đại, luân hồi liên hệ đến một nơi chốn, một tập hợp những đối tượng và sở hữu, nhưng nguyên thủy,
 Luân hồi (zh. 輪迴, sa., pi. saṃsāra, bo. `khor ba འཁོར་བ་, nguyên nghĩa Phạn ngữ là “lang thang, trôi nổi” theo ngữ căn sam-√sṛ, có khi được gọi làHữu luân (zh. 有輪), vòng sinh tử, hoặc giản đơn là Sinh tử (zh. 生死). Thuật ngữ này chỉ những đời sống tiếp nối nhau, trạng thái bị luân chuyển của một loài Hữu tình khi chưa đạt giải thoát, chứng ngộ Niết-bàn. Nguyên nhân trói buộc trong luân hồi là các pháp Bất thiện (sa. akuśala), gồm có thamái (sa. tṛṣṇā), sân (sa. dveśa) và si (sa. moha, hoặc vô minh, sa. avidyā). Nghiệp (sa. karma) ảnh hưởng đến sự tái sinh. Trong Đại thừa, luân hồi được xem là thế giới của hiện tượng và thể tính của nó chính là thể tính của Niết-bàn.

Cội nguồn của luân hồi từ đâu, loài hữu tình có từ bao giờ…, những câu hỏi này đã được nhiều người nêu lên nhưng Phật tuyệt đối không trả lời những sự thắc mắc vô bổ này vì theo Phật, chúng chẳng giúp ích gì trên con đường tu tập. Niết-bàn, sự giải thoát khỏi luân hồi chỉ có thể thực hiện trong kiếp làm người; trong tất cả con đường tái sinh khác chúng sinh không thể đạt Bồ-đề vì không có đủ khả năng nhận thức được yếu tố chính của luân hồi, đó là tham và vô minh. Muốn thoát khỏi luân hồi thì cần phải dứt được nghiệp chướng do dục giới mang lại; muốn thoát khỏi nó, theo Phật, chỉ có con đường bát chính đạo mới dẫn con người đến cõi niết bàn.

Luân hồi là một vòng xoay của sinh ra, sống trên đời, chết, tái sinh không chỉ trong Đạo Phật, mà cũng theo những tôn giáo khác như Đạo Ấn, Đạo Bön, Đạo Kỳ Na, Đạo Sikh, và những tôn giáo khác của Ấn Độ. Trong ngôn ngữ hiện đại, luân hồi liên hệ đến một nơi chốn, một tập hợp những đối tượng và sở hữu, nhưng nguyên thủy, từ ngữ này liên hệ đến một tiến trình của việc theo đuổi tương tục hay dòng chảy của sự sống. Theo nguyên nghĩa, từ ngữ này liên hệ đến một dòng suối tương tục của tâm thức, hay sự tương tục nhưng nhưng bị lôi cuốn vô trật tự của đam mê, tham dục, cảm xúc, và kinh nghiệm.

Trong hầu hết các tôn giáo Ấn Độ, đời sống không được xem như bắt đầu với việc sinh và chấm dứt với sự chết, nhưng như là một sự hiện hữu tương tục trong đời sống hiện tại của cơ thể và mở rộng vượt xa hơn nữa với quá khứ và tương lai. Bản chất của những hành động xảy ra trong phạm vi một kiếp sống (tốt hay xấu) quyết định số phận tương lại của mỗi chúng sinh. Luân hồi được liên kết gần gũi với ý tưởng tái sinh, nhưng chủ yếu liên hệ đến điều kiện của đời sống, và kinh nghiệm của sự sống.

Trong Đạo Phật, vào thời điểm sắp chết tâm thức (thức của những giác quan khác nhau, chẳng hạn như nhãn thức, nhĩ thức,...) hoạt động như hạt giống cho sự sản sinh một tâm thức mới trong một cấu trúc sinh học mới, dẫn đến ý chí thúc đẩy tại thời điểm của cái chết (là điều tự chúng tiêm nhiễm bởi những sự thúc đẩy của ý chí kiếp trước). Trong những tôn giáo khác của Ấn Độ, những sự thúc đẩy ý chí sinh ra từ đời sống hiện tại được trao truyền đến một cấu trúc tâm thức thông thường được biết như linh thức hay hương linh, là điều sau thời điểm trung ấm (bardo), hình thành căn bản cho một cấu trúc sinh học mới sẽ có kết quả là sự tái sinh và một đời sống mới. Tiến trình vòng xoay này chấm dứt trong sự đạt đến của giải thoát. Nếu một người sống trong những cung cách cực kỳ xấu ác, người ấy có thể tái sinh như một súc vật hay những chúng sinh không may mắn khác trong sáu cõi luân hồi (như quỷ đói, hay rơi vào địa ngục)

Trong phạm vi địa phương hiện đại, đặc biệt trong Hy Mã Lạp Sơn, luân hồi cũng là một từ ngữ được diễn tả vấn đề đời sống đầy những dính mắc cùng đến và đi, một thể trạng vi tế của khổ đau. Thí dụ, khi nói lời giả biệt với một người thương, người ta có thể thốt ra "ah....luân hồi."

LUÂN HỒI

     Từ xưa đến nay người ta thường thắc mắc về vấn đề mất còn, sống chết. Có hai thuyết làm cho người ta chú ý đến nhiều nhất. Một thuyết cho rằng loài người cũng như loài vật, một lần chết là mất hẳn, không còn gì tồn tại sau đó nữa. Một thuyết cho rằng loài người chết đi, nhưng linh hồn vẫn vĩnh viễn còn lại, được lên thiên đàng hay bị xuống địa ngục.

     Cả hai thuyết trên đều không đúng với sự thật. Chết rồi, không thể là hoàn toàn mất hẳn được, vì ở đời này, không có vật gì là mất hẳn. Cho đến một hạt cát, một mảy lông cũng không thể mất hẳn, huống là cái thân con người. Nhưng bảo rằng linh hồn thường còn, ở mãi trên thiên đàng hay dưới địa ngục cũng không đúng. Trong vũ trụ không có một cái gì có thể vĩnh viễn ở yên một chỗ, mà trái lại, luôn luôn biến đổi và xê dịch. Vả lại, có gì bất công hơn là chỉ vì những cái nhân đã gieo trong một đời hiện tại ngắn ngủi, mà phải chịu cái quả vĩnh viễn tốt hay xấu trong tương lai? Hai thuyết trên này đều bị Đạo Phật bác bỏ.

     Theo giáo lý Đạo Phật thì chúng sinh không phải đoạn diệt, cũng không phải thường còn, mà quay lộn trong cảnh sinh tử “luân hồi”. Luân hồi theo chữ Hán thì “luân” là bánh xe, “hồi” là trở lại. Hình ảnh bánh xe quay tròn trở lại dùng để hình dung sự xoay chuyển của mỗi chúng sinh trong sáu cõi. Khi đầu thai ở cõi này, khi ở cõi khác. Tử sinh, sinh tử tiếp nối không ngừng, như bánh xe quay lăn. Khi đã công nhận luật nhân quả, thì chúng ta cũng không thể phủ nhận sự luân hồi, vì luân hồi chẳng qua là nhân quả liên tục. Bánh xe luân hồi quay tròn. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu cũng không có điểm kết thúc. Bánh xe ấy cứ quay mãi trong vòng trầm luân của sinh tử khổ đau cho đến khi nào con người tu tập và đạt đến sự giải thoát tối thượng.

     Vua Ba Tư Nặc một hôm ra khỏi thành bất ngờ thấy một thiếu phụ rất xinh đẹp. Bà này đã có chồng. Muốn chiếm đoạt bà nên vua tìm cách hãm hại người chồng, sai người chồng đi làm một công chuyện khó khăn ở nơi thật xa, nếu không thành công sẽ bị trừng phạt. Suốt đêm hôm đó vua không ngủ được, bên tai cứ nghe văng vẳng tiếng kêu than của người từ dưới địa ngục. Vua đến hầu Phật và bạch rằng vua cảm thấy đêm dài vô tận. Người chồng cũng trình với Đức Phật rằng một dặm đường thật quá dài. Ðức Phật đúc kết hai câu chuyện và thêm rằng đối với người không biết giáo pháp, vòng luân hồi mới quả thật là xa xôi diệu vợi:

 (Pháp Cú 60)

Người mất ngủ thấy đêm dài

Bộ hành mỏi mệt than hoài đường xa

Luân hồi cũng vậy thôi mà

Chập chùng tiếp nối thật là tái tê

Với người ngu dại, u mê

Biết gì chánh pháp, hiểu chi đạo mầu.

     Con người nào hay ngoài nỗi cơ cực của kiếp người, còn có đời sống siêu thoát, đời sống an lành. Ðó là đời sống của người hiểu “chân diệu pháp”. Không hiểu “chân diệu pháp” con người sẽ khổ đau mãi mãi trong kiếp luân hồi. Chân diệu pháp chính là Phật pháp. Trong vũ trụ tất cả sự vật, từ vật nhỏ như hạt bụi, đến lớn như quả địa cầu, không vật nào chẳng luân hồi:

     1. Ðất luân hồi: Đất làm thành bình hoa. Một thời gian bình bị bể và lại thành đất. Ðất này lại làm thức ăn cho cây cỏ. Cây cỏ tàn rụi trở thành phân bón cho cây khác, hoặc làm thực phẩm cho động vật. Ðộng vật ăn cây cỏ này vào, hoặc bài tiết ngay ra ngoài để thành phân, thành đất, hoặc biến thành máu huyết, da thịt để một ngày kia thân thể động vật già yếu, sẽ tan rã thành đất lại. Bao nhiêu lần thay hình đổi dạng đất lại trở thành đất sau một vòng luân chuyển.

     2. Nước luân hồi: Nước bị sức nóng mặt trời bốc thành hơi. Hơi bay lên không gặp lạnh biến thành mây. Mây tụ lại rơi xuống thành mưa. Mưa chảy xuống ao hồ thành nước lại. Hoặc nước mưagặp hơi lạnh quá, đọng lại thành băng giá. Băng giá gặp hơi nóng mặt trời tan ra lại thành nước.

     3. Gió luân hồi: Gió là sự luân chuyển của không khí. Không khí bị sức nóng mặt trời bốc cháy, giãn ra, bốc lên cao làm thành những khoảng trống. Ðể bù vào những khoảng trống ấy, không khí ở các nơi khác bay tới điền vào, gây thành luồng gió. Không khí xê dịch chậm thì gió nhỏ, xê dịch nhanh thì gió lớn, xê dịch nhanh nữa thì thành bão, nhưng bản chất của nó bao giờ cũng là không khí.  

     4. Lửa luân hồi: Lửa là một sức nóng làm cháy được vật. Khi đủ nhân duyên thì sức nóng phát ra lửa. Chẳng hạn hai thanh củi trong trạng thái bình thường thì chúng ta chẳng thấy sức nóng ở đâu cả, nhưng khi chà xát vào nhau một hồi, thì lửa liền bật lên. Ngọn lửa này có thể đốt hai thanh củi kia, và hai thanh củi này một phần hóa thành tro than, một phần biến thành thán khí. Những cây khác dùng rễ mình để thu hút thán khí, chất chứa lại sức nóng để một ngày kia, gặp đủ nhân duyên lại bừng cháy lên. Như thế, sức nóng bao giờ cũng có sẵn, nhưng khi thì nó ở trạng thái tiềm phục, khi thì ở trạng thái phát hiện. Mắt chúng ta chỉ thấy khi nó phát hiện, và chỉ khi ấy mới cho là nó có, còn khi nó ở trạng thái tiềm phục thì ta bảo là nó không có. Thật ra thì nó chỉ luân hồi qua những trạng thái khác nhau, chứ không phải dứt đoạn hay mất hẳn.

     5. Cảnh giới luân hồi: Kinh Phật thường nói: “Thế giới nhiều như cát sông Hằng”. Thật thế, ban đêm chúng ta nhìn lên trời, thấy hằng hà sa số tinh tú. Mỗi tinh tú là một thế giới và mỗi thế giới ấy đều không thoát ra ngoài định luật chung là “thành, trụ, hoại, không”. Mỗi phút giây nào cũng có sự sinh diệt của thế giới. Thế giới này tan đi, thì thế giới khác nhóm lên, như một làn sóng này mất đi thì một làn sóng khác nổi lên, làm nhân làm quả, tiếp nối cho nhau, luân hồi không bao giờ dứt.   

     6. Thân người luân hồi: Thân người, hay thân thú vật cũng thế, xét cho cùng thì cũng do bốn chất lớn (“tứ đại”) là “đất, nước, gió, lửa” mà có. Như trên chúng ta đã thấy, tứ đại đều luân hồi, thì thân người cũng phải luân hồi theo. Khi thân nầy chết và tan rã, thì chất cứng dẻo trả về cho Ðất; chất đượm ướt trả về cho Nước; hơi nóng trả về cho Lửa; hơi thở và sự cử động trả về cho Gió. Rồi bốn chất này tùy theo duyên chung hợp lại, làm thành cây cỏ hay thân người khác. Người khác đến khi chết rồi, bốn chất đó trở về bản thể cũ của chúng. Khi thành thân người, lúc làm thân súc vật, năm nay tụ hợp ở đây, sang năm đã rời đi nơi khác, không phải thường còn, cũng không phải mất hẳn, mà là luân hồi.

     7. Tinh thần Luân hồi: Con người không phải chỉ gồm có tứ đại. Ngoài tứ đại, còn có phần tâm lý nữa, hay nói một cách tổng quát hơn, còn có tinh thần. Phần thể xác đã không tiêu diệt mà chỉ biến hóa luân hồi, thì tâm hay tinh thần, cũng không tiêu diệt mà chỉ biến chuyển xoay vần mà thôi. Như đã nói, tất cả những hành động của thân tâm tạo thành cho chúng ta một cái nghiệp. Cái nghiệp ấy biến dịch, xoay vần mãi theo một định luật chung, đó là luật nhân quả. Ðến đây, chúng ta thấy được sự tương quan mật thiết giữa nhân quả và luân hồi. Ðã có nhân quả, tức phải có luân hồi (trừ trường hợp tu nhân giải thoát); đã có luân hồi phải tuân theo luật nhân quả. 

     Truyện tích kể rằng một thầy Sa di trẻ tuổi không biết giữ gìn các giác quan, nhìn gái đẹp mà mỉm cười, lòng khởi lên dục vọng. Cô gái bực bội gọi thầy là “ông trọc đầu”. Thầy nổi sân, không ai làm dịu được thầy. Ðức Phật dùng phương pháp hòa giải và thuyết phục. Ngài dạy hãy từ bỏ tham vọng thấp hèn, chớ buông lung chạy theo cảnh vật bên ngoài, phải biết thanh lọc tâm ý thời sẽ tránh khỏi bị trôi lăn mãi trong cảnh sinh tử, tử sinh của vòng luân hồi:

 

(Pháp Cú 167)

Đừng theo dục vọng thấp hèn

Sống đừng buông thả đắm chìm bản thân

Đừng mang thành kiến sai lầm

Đừng tăng thêm mãi dương gian não phiền

Luân hồi sinh tử triền miên.


     Có thể nói một cách chắc chắn rằng, chúng ta lúc sinh tiền tạo nhân gì, thì khi chết rồi, nghiệp lực dẫn dắt tinh thần đến chỗ nó thọ báo không sai. Nếu tạo nhân tốt, thì luân hồi đến cảnh giới giàu sang, thân người tốt đẹp. Còn tạo nhân ác, thì luân hồi đến cảnh giới nghèo hèn, thân hình xấu xa, tàn tật. Tùy theo nghiệp nhân mình tạo mà một chúng sinh có thể nhập vào một trong những cảnh giới sau đây:     

 

     - Địa ngục: nếu tạo nhân sân hận, độc ác làm nhiều điều tội lỗi vừa hại mình vừa hại người.                              

 

     - Ngạ quỷ (quỷ đói khát): nếu tạo nhân tham lam, bỏn sẻn, không biết bố thí, giúp đỡ người, từ tiền của đến giáo pháp, trái lại, còn mưa sâu, kế độc, để cướp đoạt của người.             

     - Động vật (súc sinh): nếu tạo nhân si mê sa đọa theo thất tình, lục dục, tửu sắc, tài khí, không xét hay dở, tốt xấu.

     - A Tu La (một loại thần nóng nảy giữ tợn): nếu tạo nhân trong trường hợp gặp việc nhân nghĩa thì làm, gặp việc sai quấy cũng không tránh, vừa cương trực, mà cũng vừa độc ác. Tạo nhân như vậy, kết quả sẽ gặp vui sướng cũng có, mà buồn khổ cũng nhiều.

     - Người (nhân): Tu theo “ngũ giới” thì đời sau trở lại làm người, cao quý hơn muôn vật.

     - Trời (thiên): Bỏ “mười điều ác” tu theo “thập thiện” thì sau khi chết, được sinh lên cõi trời. Nhưng nên nhớ cõi trời nầy cũng còn ở trong vòng phàm tục, chịu cảnh sinh tử, luân hồi.

     - Muốn thoát ra ngoài cảnh giới sinh tử luân hồi, và đến bốn cõi Thánh là Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát và Phật, thì phải tu nhân giải thoát.   

     Ngày kia Ðại đức Xá Lợi Phất vô tình chạm nhằm vành tai của một tăng sĩ vốn đã có lòng ganh tị với thầy. Tăng sĩ này đem câu chuyện bạch lại với Ðức Phật. Khi được hỏi đến, thầy Xá Lợi Phất không tự bào chữa mà chỉ mô tả lại đời sống khiêm tốn của thầy từ lúc xuất gia. Tăng sĩ kia nghe xong lấy làm ăn năn hối hận, xin sám hối với thầy và thầy cũng vậy, xin sám hối trở lại, nếu thầy có làm điều chi lỗi lầm, phạm đến tăng sĩ. Nhân đó Ðức Phật ca ngợi Ðại đức Xá Lợi Phất, ví thầy như đất, im lìm, trầm lặng không hề xao xuyến: 

(Pháp Cú 95)

Bao sân hận chẳng vương mang

Tâm như một cõi đất bằng phẳng kia

Và như trụ đá kiên trì

Như hồ trong lắng không hề bùn nhơ

Người như vậy chẳng bao giờ

Luân hồi sinh tử diễn ra được nào.

     Một ông cha vợ đã đến tuổi già mà chưa làm được việc thiện nào. Chú rể thỉnh Ðức Phật và chúng Tăng về nhà để cúng dường thay cha vợ. Ðức Phật dạy cụ già:

       (Pháp Cú 238)

Hãy lo tự tạo cho mình

Một hòn đảo để tu hành bình an

Tinh cần, trí tuệ, khôn ngoan

Gột đi dục vọng, phá tan não phiền

Sẽ không quay trở về miền

Quẩn quanh sinh lão, triền miên luân hồi. 

     La Hầu La là một Sa di trẻ tuổi, đã đắc quả A La Hán, nằm ngủ trước hương thất của Ðức Phật. Ma vương đến, cố ý làm cho thầy sợ hãi. Ðức Phật nhận thấy và tuyên bố rằng người này đã đạt đến mức toàn thiện, không còn lo sợ, không còn ô nhiễm, xa lìa ái dục, tiêu trừ hết mọi gai chướng của đời sống trần tục, thì chỉ còn thân này là cuối cùng, không bị tiếp tục sinh diệt trong vòng luân hồi nữa:

(Pháp Cú 351)

Mục tiêu ai đạt tới nơi

Không còn sợ hãi. Xa rời nhiễm ô

Xa lìa ái dục êm ru

Cắt đi gai chướng nhỏ to trong đời

Mũi tên sinh tử nhổ rồi

Thân này là cuối, luân hồi còn đâu.

     Đức Phật dạy thêm rằng người không còn ái dục, không còn luyến tiếc, bỏ hết mọi ham muốn các thú vui vật chất thấp hèn, dẹp bỏ mọi thành kiến, mọi tà kiến, thông suốt ý nghĩa trong kinh điển giáo lý, là bậc trí tuệ uyên thâm, là bậc vĩ nhân. Họ là người mang thể xác cuối cùng và không còn tiếp tục sinh diệt trong vòng luân hồi nữa: 

(Pháp Cú 352)

Xa lìa ái dục tầm thường

Không còn luyến tiếc vấn vương bận lòng

Bao nhiêu giáo pháp tinh thông

Lời văn, ý nghĩa vô cùng hiểu sâu

Là người trí tuệ hàng đầu

Vĩ nhân đáng kính, còn đâu luân hồi,

Thân này là cuối cùng rồi.

     Thầy Xá Lợi Phất một hôm dẫn năm trăm vị Tỳ kheo đi khất thực và đến trước nhà mẹ thầy. Bà mẹ mời mọi người vào nhà và dọn thức ăn. Nhân dịp này bà mẹ già nặng lời quở mắng thầy vì thầy bỏ nhà đi tu, nhưng thầy nhẫn nại chịu đựng. Khi nghe thuật lại hạnh nhẫn nhục này, Ðức Phật ngợi khen vị đệ tử mình là đã làm tròn nhiệm vụ, thận trọng tự khép mình vào khuôn khổ khắt khe của đời sống đạo hạnh, sẽ mang xác thân này lần cuối cùng bởi vì đã tận diệt mọi dục vọng, sẽ không còn tái sinh nữa:

(Pháp Cú  400)

Ai không nóng giận với người

Chu toàn bổn phận, sống đời trang nghiêm

Không tham ái, biết tự kiềm

Xác thân hiện tại trở nên cuối cùng

Luân hồi sinh tử chẳng còn

Bà La Môn gọi tên không sai gì.

     Người nọ có biệt tài biết được một người chết rồi sẽ tái sinh đi đâu khi gõ nhẹ vào cái sọ của người chết. Ngày kia ông đến nơi Phật ngự. Đức Phật đưa ra năm cái sọ. Ông nói đúng tất cả mọi trường hợp, ngoại trừ trường hợp cái sọ của một vị A La Hán đã viên tịch. Ông không thể biết được vị ấy đi về đâu. Ông bạch hỏi Ðức Phật ông phải làm thế nào để biết. Ðức Phật nói nếu ông xuất gia Ngài sẽ chỉ dạy. Vì muốn biết, ông nọ xin thọ lễ xuất gia và sớm đắc quả A La Hán. Ðức Phật dạy rằng dù biết được nơi thác sinh của kẻ khác cũng chưa đủ, phải tu tập thêm để chứng quả A La Hán, chứng được vô sinh thời mới hết bị vướng vào vòng luẩn quẩn khổ đau của luân hồi. Khi đó thời không còn ai hay biết được nơi thọ sinh của mình nữa vì mình đâu còn tái sinh:

(Pháp Cú  420)

Ai mà sau lúc qua đời

Dù chư thiên hoặc loài người khắp nơi

Hay chúng sinh ở cõi trời

Không hay biết họ về nơi chốn nào,

Họ là bậc đáng tự hào

Nhiễm ô, dục vọng diệt bao lâu rồi

Chẳng còn sinh tử luân hồi

Bà La Môn xứng tên người biết bao!

     Cần lưu ý là khi chết rồi, một chúng sinh ở cảnh giới này, có thể đầu thai qua cảnh giới khác, chứ không phải chỉ có người mới đầu thai làm người mà thôi. Những loài thú có tâm trạng gần giống người, có thể đầu thai làm người được, cũng như những người, có tâm trạng lang sói, sẽ trở thành lang sói. Người ta thường có quan niệm sai lầm rằng, người có linh hồn người, thú vật có linh hồn thú vật và linh hồn người hay linh hồn thú vật đều bất biến, dù chết hay sống. Vì suy nghĩ như thế, nên người ta không thể công nhận rằng: chết rồi, linh hồn người trở lại chui vào thân hình chó, mèo chẳng hạn, và hồn chó mèo lại có thể vào nằm trong lốt thân hình con người.     

     Thật ra, nghiệp không phải là linh hồn, mà là một năng lực có nhuốm tính chất những hành động của mỗi chúng sinh. Vì tính chất riêng biệt ấy, mà “nghiệp lực” nhập vào một hình thức này hay một hình thức khác, do cái luật hấp dẫn (đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu). Thay vì nói người trở thành thú, hay trái lại, thú kia trở thành người, đúng hơn, nên nói “nghiệp lực phát hiện dưới hình thể người hay dưới hình thể thú”.

     Với giáo lý luân hồi, chúng ta phấn khởi mà tin rằng chết rồi không thể mất hẳn. Nhưng nếu chúng ta không biết vun trồng cội phúc, không cố gắng sống một đời sống có đạo đức, thì đời sau, chúng ta sẽ sinh vào cảnh giới xấu xa đen tối. Giáo lý luân hồi làm cho chúng ta thêm lòng tự tín, tự thấy mình là chủ nhân của đời mình, mình tạo nghiệp nhân gì, thì mình chịu nghiệp quả ấy, chứ không ai cầm cân thưởng phạt, ban phước, giáng họa cho mình cả.

     Nay chúng ta đã hiểu ý nghĩa và giá trị của giáo lý luân hồi, chúng ta nên cố gắng cải tạo tư tưởng, lời nói là hành vi của chúng ta, để tránh cho kiếp sau khỏi lâm vào cảnh giới đau khổ. Một khi các nhân ác đã được rửa sạch, những quả lành đầy đủ, các nghiệp hữu lậu không còn, lúc bấy giờ chúng ta có thể thoát ra khỏi luân hồi sinh tử và đạt đến cảnh giới tốt đẹp, bất sinh bất diệt của các vị A La Hán, Bồ Tát hay Phật.

     Sống và chết cũng như thức và ngủ, vậy thôi. Chúng ta không nên quan tâm quá đáng về cái chết, vì ai cũng chết. Điều đáng quan tâm hơn là sống và sống như thế nào để lúc chết được bình an. Vì lẽ đó, đối với Phật tử chúng ta cần phải sống giữ tâm linh trong sạch, đừng làm điều gì gây khổ đau cho chính mình và cho kẻ khác, nhất là phải luôn luôn ý thức rằng cuộc đời là vô thường. Nên quan niệm rằng “trần gian này là chiếc cầu, hãy đi qua nó chứ đừng xây nhà trên nó”. Cho đến khi nào tâm được trong sạch, thanh bình, không còn luyến tiếc, không còn bám víu vào bất cứ một điều gì, thì khi đó sự chết của chúng ta như “lên thuyền sang sông”, giải thoát mọi khổ đau và thanh thản lìa đời trong sự bình an phúc lạc.

     Một chàng thanh niên con nhà giàu có đem lòng thương một cô gái làm nghề diễn viên nhào lộn khi thấy cô này biểu diễn rất khéo léo và duyên dáng. Muốn cưới nàng làm vợ chàng phải rời nhà ra đi theo đoàn hát xiếc. Về sau này chính chàng cũng luyện tập để trở thành một nhà leo dây nhào lộn. Một hôm chàng đang biểu diễn tài nghệ của mình và đang được dân chúng tán thưởng thời đoàn khất sĩ của Đức Phật đi đến. Mọi người tranh nhau tới đảnh lễ Đức Phật, chẳng ai màng nhìn tiếp trò nhào lộn.

     Chàng nghe Đức Phật dạy bên dưới “Chớ tham luyến vào thân tâm năm uẩn, hãy mau mau tìm lối thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi, đừng luyến ái dĩ vãng, hiện tại, hay tương lai. Hãy vượt qua bờ bên kia của kiếp nhân sinh trần tục với tâm giải thoát, để khỏi chịu cảnh tử sinh luân hồi trở lại với mình”. Chàng chợt thức tỉnh. Sau khi rời đoàn hát chàng xin thọ giới Tỳ kheo, chẳng bao lâu chứng được quả vị A La Hán. Chàng vẫn không quên lời Phật dạy:

(Pháp Cú 348)

Mặc cho quá khứ trôi đi

Níu chi hiện tại, chờ gì tương lai

Rời mau bến thảm cuộc đời

Vượt qua bờ nọ là nơi tuyệt vời

Khi tâm đã giải thoát rồi

Đâu còn sinh lão nổi trôi xoay vần.

     Liền sau khi thành đạo tại cội bồ đề, một trong những tuyên ngôn đầu tiên của Ðức Phật đã được cất lên giữa dòng đời với nội dung giải thoát vòng luân hồi trầm luân. Khải hoàn ca đó đã được ghi lại trong kinh tạng như sau:

 (Pháp Cú 153 - 154)

Lang thang khắp nẻo luân hồi

Qua bao tiền kiếp nổi trôi ta bà

Tìm không gặp kẻ làm nhà

Chuyên gây cuộc sống diễn ra rối bời,

Nay ta bắt gặp ngươi rồi

Kẻ làm nhà hỡi, ngừng thôi đừng làm!

Rui mè ngươi đã gãy ngang

Rui mè dục vọng tan hoang đã đành,

Cột kèo ngươi cũng tan tành

Cột kèo tăm tối vô minh hại người!

Niết Bàn ta chứng đắc rồi

Bao nhiêu tham ái dứt nơi tâm này. 

     Ở đây, Ðức Phật xác nhận cuộc đi thênh thang bất định trong nhiều kiếp sống quá khứ đầy đau khổ, một sự kiện hiển nhiên chứng minh có nhiều kiếp tái sinh. Ngài phải đi bất định, và do đó, phải chịu khổ đau, phải lang thang mãi cho đến ngày tìm ra được “kiến trúc sư” đã xây dựng cái nhà này, tức thể xác này. Trong kiếp cuối cùng, giữa khung cảnh cô đơn tịch mịch của rừng thiêng, lúc đi sâu vào công trình thiền định mà Ngài đã dày công trau giồi từ xa xôi trong quá khứ, trải qua cuộc hành trình bất định, Ngài khám phá ra kẻ làm nhà hằng mong mỏi muốn biết.

     Kẻ làm nhà này là nguyên nhân luân hồi. Kẻ làm nhà này không ở ngoài, mà ở sâu kín bên trong Ngài, khiến Ngài bị tái sinh mãi để mang cái thân xác này. Ðó là dục vọng, ái dục, sự tự tạo, một thành phần tinh thần luôn luôn ngủ ngầm bên trong tất cả mọi người. Dục vọng xuất phát bằng cách nào thì không thể biết. Cái gì ta tạo ra, ta có thể tiêu diệt. Tìm ra kẻ làm nhà tức tận diệt dục vọng, trong lúc đắc quả A La Hán, mà trong bài kệ này, ý nghĩa bao hàm trong thành ngữ chấm dứt dục vọng.

     Rui mè, hay cái sườn nhà, của căn nhà tự tạo này là những ô nhiễm như tham, sân, si, tự phụ, tà kiến, hoài nghi, mê muội, phóng dật, biếng nhác. Cột kèo hay cây đòn dông chịu đựng cái sườn nhà là vô minh tăm tối, căn nguyên xuất phát của mọi dục vọng. Phá vỡ cột kèo vô minh bằng trí tuệ tức là làm sập căn nhà. Rui mè và cột kèo là vật liệu mà kẻ làm nhà dùng để cất nhà, cái nhà không đáng cho ta ham muốn. Vậy, khi hết vật liệu xây cất, tức nhiên anh thợ không còn dựng nhà được nữa. Khi cái nhà đã bị phá tan tành thì cái tâm đã thành đạt trạng thái vô lậu, vô sinh, bất diệt, là Niết Bàn. Tất cả cái gì còn tại thế đều phải bị bỏ lại phía sau và chỉ có trạng thái siêu thế, Niết Bàn, sẽ tồn tại.


Hoài nghi về cuộc sống của con người sau cái chết vẫn là câu hỏi thường trực bỏ ngỏ đối với toàn thể nhân loại...

Từ hàng nghìn năm nay, con người vẫn luôn tìm tòi và khám phá để trả lời câu hỏi kinh điển nhất của nhân loại: "Chuyện gì xảy ra sau khi ta chết đi?" hay "Cuộc sống sau cái chết sẽ như thế nào?". 
Có vô số giả định được đưa ra: chúng ta sẽ lên thiên đường, xuống địa ngục hay tiếp tục sống trong một thế giới khác... Tuy nhiên, đâu mới là câu trả lời chính xác cho ẩn số này?

Nhiều người tự hỏi, mỗi con người sinh ra chỉ có duy nhất một cuộc sống hay đó là một vòng luân hồi: sinh ra - chết đi - tái sinh vào cuộc sống mới. Giả thuyết mỗi linh hồn có nhiều kiếp sống được tiến sĩ Ian Stevenson thuộc ĐH Virginia (Mỹ) nghiên cứu một cách khách quan từ năm 1958. Ông đã tìm hiểu rất nhiều trường hợp và chỉ ra rằng, con người có lẽ không chỉ có duy nhất một cuộc sống.

Bài viết dưới đây không nhằm khẳng định hay cố thuyết phục bạn rằng, thật sự có thêm một hay nhiều kiếp sống sau khi chết mà chỉ dừng lại ở việc nêu lên những nhân chứng được xác thực về việc đầu thai trên khắp thế giới. Qua đó, nó giúp bạn có cái nhìn rộng hơn về bí ẩn sự sống của con người sau cái chết.

 

Từ những đoạn ký ức của nhân chứng...

 

Trường hợp đầu tiên là câu chuyện của Gamini Jayasuriya được sinh ra ở Sri Lanka vào năm 1962. Khi còn là một đứa trẻ, Gamini đã kể rằng cậu nhớ kiếp trước của mình. 
Ở kiếp trước, cậu có một người mẹ khác to lớn hơn người mẹ hiện giờ. Cậu có chú voi đồ chơi hay mang theo khi đi tắm, cậu cũng đã từng bị ngã xuống chiếc giếng gần nhà. Cậu thường bị người em tên Nimal cắn và cậu còn đang để chiếc cặp sách trên chiếc ghế trong phòng.

Nếu sự việc chỉ dừng lại ở đây thì việc tìm ra kiếp trước của Gamini sẽ không thể thực hiện được. Thật may là trong một lần tình cờ đi qua khu vực Nittambuwa (Sri Lanka), Gamini nói rằng em nhận ra mình đã từng sống ở đó. Mọi người cùng nhau quay lại Nittambuwa để tìm hiểu. Họ xuống xe ở chỗ Gamini nói và đi về phía cuối con đường. Tuy nhiên, họ đã không bước vào căn nhà mà Gamini chỉ - nơi mẹ em sống ở đó bởi đó là một gia đình theo đạo Thiên Chúa. 

Nghĩ lại, mọi người trong nhà đều cảm thấy có sự trùng hợp khi mỗi lần cầu nguyện, Gamini thường quỳ thẳng lưng (giống như khi cầu nguyện theo đạo Thiên Chúa) chứ không quỳ ngồi như người khác. Có một lần, em còn đòi mẹ treo cây Thánh giá em tìm được lên tường.

Tình cờ, họ gặp được người đi đường và nghe kể về gia đình nơi Gamini nói tới. Gia đình này theo đạo Thiên Chúa, có một cậu con trai tên Palitha nhưng đã qua đời 2 năm trước khi Gamini sinh ra (tức là năm 1960). Palitha có một người em tên là Nimal - người hay cắn cậu. Vài ngày trước khi qua đời, cậu được nghỉ lễ và đã để chiếc cặp lên ghế thay vì cất trong tủ như thường lệ...

Trường hợp thứ hai được đề cập đến là một cậu bé 6 tuổi người Thổ Nhĩ Kỳ - Kemal Atasoy. Vào năm 1997, tiến sĩ Jurgen Keil - nhà tâm lý học người Úc đã lắng nghe và ghi nhận những miêu tả một cách tự tin về cuộc sống trước kia của cậu bé Kemal.

Kemal kể rằng ở kiếp trước, cậu đã từng sống ở Istanbul (cách đó 800km), trong dòng họ Karakas và cậu là một tín đồ Cơ đốc giáo giàu có người Armenia. Nhà của Kemal sống cạnh bờ sông và gia đình cậu chỉ sống tại đây trong một thời gian nhất định trong năm. Cậu thường có thói quen mang theo túi da lớn bên người khi ra ngoài. Cậu có vợ người Hy Lạp và có con. 

Tiến sĩ Keil đã bỏ công sức đi kiểm chứng lời nói của Kemal. Tuy rất vất vả nhưng cuối cùng, tiến sĩ cũng tìm gặp được một cụ già chắc chắn có gia đình người Armenia sống ở ngôi nhà đó nhưng thông tin về mọi người trong gia đình để tại nhà thờ đã bị thiêu trụi trong một vụ hỏa hoạn.  

Tiến sĩ Keil tiếp tục tìm đến một nhà sử học uy tín trong vùng và được nghe kể câu chuyện gần như trùng khớp với những lời Kemal đã nói. Nhà sử học kể rằng, có một gia đình đạo Cơ-đốc giàu có sống trong căn nhà bên hồ. Ông ta là người Armenia duy nhất trong vùng và có họ Karakas. Vợ ông là người Hy Lạp và họ có ba người con. 

Người đàn ông thường mang theo một túi da lớn và vì dòng họ Karakas chuyên kinh doanh đồ da ở một khu vực khác của Istanbul nên ông ta chỉ sống ở nhà vào những tháng mùa hè. Người đàn ông đó chết khoảng năm 1940-1941.

Câu hỏi được đặt ra là làm thế nào một cậu bé lại có thể biết những thông tin về một người đàn ông sống cách đó 800km và không có bất cứ một liên hệ nhỏ nào tới gia đình cậu?

Và đặc biệt hơn, cậu không thể nghe kể về một người đã chết cách đó 50 năm mà tiến sĩ Keil phải rất vất vả mới tìm được một chút thông tin ít ỏi? Liệu Kemal có cách giải thích nào không hay đơn giản, Kemal khẳng định kiếp trước của mình - cậu chính là người đàn ông đó.

... đến những vết bớt trên cơ thể... 

Nhiều người cho rằng, những dấu vết trên cơ thể như vết bớt có liên quan tới cuộc sống của một người trước đó, là dấu vết của sự luân hồi. Nhiều câu chuyện, trường hợp được kể dưới đây mang màu sắc về sự luân hồi, ở đó con người sau khi chết sẽ chuyển thành một cơ thể khác ở kiếp sống mới. Trong sự thay đổi đó có những dấu vết của cơ thể cũ còn lưu lại, tạo thành vết bớt. 

Chanai Choomalaiwong được sinh ra ở miền Trung Thái Lan vào năm 1967 với hai vết bớt, một ở sau đầu và một ở phía trên mắt trái. Khi cậu bé được sinh ra, gia đình Chanai không cho rằng các vết bớt này có ý nghĩa đặc biệt gì, nhưng khi được ba tuổi, cậu bé bắt đầu kể chuyện về cuộc sống ở kiếp trước. 

Cậu bé nói mình từng là một thầy giáo tên Bua Kai và bị bắn chết trên đường đến trường. Chanai nhớ được tên bố mẹ, vợ và hai con trong kiếp trước, cậu liên tục đòi người bà hiện tại của mình đưa tới nhà bố mẹ trước kia của mình ở Khao Pra.

Cuối cùng, chiều lòng Chanai, hai bà cháu đi đến một thị trấn gần Khao Pra. Chanai dẫn bà tới ngôi nhà mà em nói là nơi bố mẹ mình sống. Ngôi nhà thuộc về một cặp vợ chồng già sống cùng người con trai làm thầy giáo tên Bua Kai Lawnak nhưng đã mất 5 năm trước khi Chanai được sinh ra.

Chanai đã nói bố mẹ của Bua Kai chính là bố mẹ mình. Bị ấn tượng bởi vết bớt và lời kể của Chanai, cặp vợ chồng già đã mời cậu ở lại một thời gian. Trong khoảng thời gian này, Chanai đã chỉ ra đúng những đồ vật Bua Kai hay dùng và yêu cầu con gái của Bua Kai gọi mình là bố.

Tiến sĩ Ian Stevenson không tìm thấy một hồ sơ pháp y nào về các vết thương của Bua Kai nhưng theo lời kể của những người trong gia đình thì Bua Kai bị một viên đạn xuyên qua đầu từ phía sau. Do đó, vết thương ở sau đầu (khi đạn tiếp xúc) nhỏ hơn nhiều so với vết thương trên trán (khi đạn xuyên ra), điều này trùng khớp với hai vết bớt trên đầu Chanai (một vết nhỏ sau đầu và một vết to phía trên mắt trái).

Trường hợp này đã chỉ ra, không thể có sự "trùng hợp ngẫu nhiên" nào khi một cậu bé có những vết bớt trùng khớp hoàn toàn với vết thương của người quá cố. Bên cạnh đó, cậu còn nhớ rất rõ về các chi tiết của cuộc đời thầy giáo Bua Kai - người mà cậu chưa từng quen biết .

Trường hợp khác được nhắc tới tiếp theo là Necip Unlutaskiran từ Thổ Nhĩ Kỳ. Khi vừa chào đời, người ta thấy cậu bé có một số vết bớt trên đầu, mặt và trên người. Lúc đầu, bố mẹ cậu định đặt tên cho cậu là Malik nhưng trong giấc mơ vào thời điểm ba ngày trước khi cậu được sinh ra, mẹ cậu mơ thấy con mình nói nó tên là Necip.

Sau đó, bố mẹ cậu đổi tên cậu thành Necati vì 2 tên này tương tự nhau và trong gia đình đã có đứa bé tên Necip. Tuy nhiên, khi biết nói, cậu liên tục đòi được gọi là Necip và không chịu đáp lại khi bị gọi bằng tên khác.

Necip bắt đầu kể về cuộc sống kiếp trước từ khi lên 6. Cậu nói trước đây mình sống ở  Mersin, đã có vợ, con, và đã bị đâm liên tiếp cho tới chết. Chỉ tới khi cậu được tới thăm ông bà ngoại - lúc 12 tuổi thì những lời kể của cậu bé mới được kiểm chứng.

Lúc trước, bà ngoại Necip sống ở Mersin và có người hàng xóm tên Necip Budak. Anh ta bị đâm đến chết một thời gian ngắn trước khi bé Necip ra đời. Khi ông ngoại đưa Necip tới Mersin, em đã nhận ra người nhà của Necip Budak và nói rằng, mình từng dùng dao cứa vào chân vợ mình trong một trận cãi vã.

Dĩ nhiên, trước đó Necip chưa hề nhìn thấy chân của người quả phụ. Sau đó, một người trong nhóm nghiên cứu đã kiểm chứng, xác nhận, chị có một vết sẹo trên đùi và thừa nhận vết sẹo này do chính chồng mình gây ra.

Tiến sĩ Stevenson đã lấy được một bản sao biên bản khám nghiệm tử thi của Necip Budak và ông phát hiện rằng, những vết bớt trên người Necip trùng khớp với vết thương được miêu tả trong biên bản. Điều này quả là một sự trùng hợp đến khó tin.
Ở Việt Nam, một số trường hợp về chuyện nhớ lại kiếp trước của mình do chết đuối, nhận ra con cháu đã chết được "đầu thai" qua vết bớt cũng được đề cập, nhưng chưa có kiểm chứng rõ ràng.

Những lời giải thích đầu tiên…

Nói dối và tưởng tượng

Giả thuyết này không đứng vững được lâu bởi lẽ, xét về khía cạnh động cơ, những nhân vật này hoàn toàn không có động cơ nào để "sáng tạo" ra một câu chuyện như vậy. 

Bên cạnh đó, tiến sĩ Keil và cộng sự không có sự giao lưu, trao đổi thân mật trước đó, có chăng chỉ là những bức thư thông báo họ sẽ tới nhà và đặt ra rất nhiều câu hỏi. Có không ít người nghi ngại rằng, gia đình các nhân chứng sẽ dựa vào đó để trở nên nổi tiếng, tuy nhiên, họ không hề có lợi ích vật chất nào bởi những thông tin này sẽ được đề cập trong tập hồ sơ dài cùng hàng nghìn trường hợp khác.

Mặt khác, cũng có thể nhóm nghiên cứu "sáng tác" ra câu chuyện bởi chỉ có họ tiếp xúc và ghi nhận trực tiếp những thông tin nên họ hoàn toàn có thể nói dối mà không ai kiểm chứng được. Tuy nhiên, với hơn 2.500 hồ sơ nhân chứng lưu trữ ở ĐH Virginia được ghi chép cẩn thận thì đây quả là giả thuyết tồi.

Những thông tin được biết đến bằng cách thông thường

Một giả thuyết khác được đề cập đến đó là nhân chứng vô tình biết được thông tin về người được cho là tiền kiếp của mình. Và vô tình, những thông tin đó ăn sâu vào tiềm thức, biến thành một ký ức giả - thuật ngữ mà các nhà tâm thần thường dùng để chỉ ký ức không phải của bản thân nhưng bệnh nhân lại tưởng tượng đó là của chính mình. 

Dù vậy, giả thuyết không lý giải được việc một đứa trẻ có thể biết được những thông tin cá nhân của một người nào đó ở rất xa và không có một mối liên hệ nào với gia đình đứa bé ấy. Rất có thể, người "tiền kiếp" đã qua đời rất lâu và cũng không hề nổi tiếng để thông tin cá nhân của họ có thể lọt ra ngoài.

"Trí nhớ gene"

Người ta cho rằng, những ký ức có thể được di truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác nhờ gene. Theo đó, từ khi con người mới sinh ra, trong bộ não đã tồn tại vùng lưu giữ ký ức của những việc từng xảy ra từ đời bố mẹ, ông bà, cụ kỵ..

"Trí nhớ gene" được lưu trong những phân tử protein của tế bào não. Khi có một năng lực nào đó làm khởi động các phân tử ấy thì ký ức về đời trước sẽ được phục hồi, con người bỗng nhiên nhớ lại những gì từng xảy ra với tổ tiên xa xôi, y như là đã xảy ra với chính mình. Tuy vậy, giả thuyết này vẫn vấp phải nhiều sự phản đối của các nhà nghiên cứu. 

Liệu con người có nhiều kiếp sống?

Những niềm tin về sự đầu thai hay luân hồi được phổ biến rộng rãi trong các tôn giáo và đức tin. Một số người xem đó là một phần của tôn giáo, những người khác thấy đó chỉ là một câu trả lời cho các câu hỏi thường gặp về đạo đức và sinh tồn như là  "Tại sao chúng ta lại ở đây"?...

Quan niệm về sự đầu thai, luân hồi cho rằng, một người đã ở sẽ trở lại thế gian này trong một thể xác khác. Điều này gợi đến một sự kết nối giữa những cuộc đời có vẻ không liên quan đến nhau, nhưng sâu xa trong đó là bằng chứng ẩn giấu về sự nối tiếp giữa cuộc đời. 

Dù đưa ra rất nhiều bằng chứng chứng minh về hiện tượng đầu thai, luân hồi... nhưng Ian Stevenson nói rằng, lời giải thực sự về những trường hợp này vẫn là câu hỏi còn bỏ ngỏ. 

Nguồn intenet.

 

 

Tiện ích Bambu
Tin liên quan
Bạn cần tìm kiếm?
Advert Advert2 Advert3
TextLink
BAO LA VẠN SỰ

Mobile: 0913 290 384  /  Email: tranngockiem57@gmail.com hoặc tuvan@phuclaithanh.com

Copyright © 2014   BaoLaVanSu. Thiết kế và phát triển bởi Bambu®