tư vấn bao la vạn sự

Tu vi 1.4

Thơ đoán tử vi nam mệnh

Cập nhật : 05/07/2014
Thiên lương ngộ hoả chớ lầm, Hại người tổn vật mấy lần hoạ sinh. Thái dương hãm ngộ hung tinh, Nếu không kiện tụng, thôi đành tóc tang (bố chết) Quyền, Hao, Không Kiết chớ màng, Kẻ trên biếm loại khỏi đàng công danh.

CUNG MỆNH

A- NAM MỆNH

Những bài phú sau đây được phối hợp tất cả các phú đoán do nhân đã dịch một phần, còn một phần do soạn giả dịch bổ túc vào, là các phú Tầu được phối kiểm cẩn thận.

Tử, Phủ trọng hậu khác thường,

Vũ, Tham: người nhỏ là  phương tham lam.

Tứ phùng không, kiếp hiềm giam,

Hoặc là Tứ sát trong làng gian phi.

Thìn Tuất: Phủ, tướng phùng suy,

Tính hay chấp nhất đa nghi mội bề.

Tham, Liêm: Tỵ, Hợi đáng chê,

Tính tham thấy của người mê liền vồ.

Vũ, Tham đầu nhỏ mình to.

Phá, Liêm xốc xếch sức đo hơn người.

Cự, Con Dậu thâm môi;

Cơ, Lương, Vũ, Phá là người có uy,

Sát phùng Thiên hỉ khá hay,

Ấy là phong nhã uy nghi mọi đàng,

Khúc xương là đấn thanh nhàn,

Thật thà đúng đắn là làng đồng, lương.

Việt, Khôi là cách văn chương,

Khôi là khôi ngộ, Việt thường da đen.

Mặt hoa ấy hội Khoa Quyền;

Vũ, Tham, Hoá lộc râu liền đến tai.

Đấng vàng là hội Phong, Thai.

Long trì, Phượng các ấy ai dịu dàng.

Đẹp thay tả hữu một phương.

Khốc hự quanh mát thường thường tròn thâm.

Tham đảo tốt tóc xanh râm;

Mắt đen vũ, Kỵ chẳng nhầm một ai.

Việt, đà tiếng nói khoan thai;

Đồng, không, hư, nhận lắm lời thị phi.

Mộc tính làm dáng ai bì,

Hay khoe mình cũng bởi vì lam quan.

Trường sinh, lực sĩ nói ngoan;

Phủ phùng Thiên mã luận bàn thấp cao.

Quy, ân là khách phong tao,

Trên nào cũng vị, dưới nào cũng yêu.

Thanh long cơ biến đủ điều,

Tấu thư nói ngọt người theo ngay về.

Hỉ thần, hoa cái tốt ghê,

Khẩu thiệt trường đoàn mọi bề đảm đang,

Kiếp, không da ắt đen hoàn;

Hoả, linh mặt khó sầu đâm đêm ngày,

Kình dương tai kém mình gây,

Đà la mắt lớn, chân tay thì dài.

Đào, hồng mặt mũi xinh tươi,

Ky, Hình, Đà, nhận là người tật thương.

Vũ, Diêu, Toái ngọng lẽ thường,

Lại thêm Việt, Kỵ ắt phường điếc câm.

Đồng cung Diêu, Kỵ chẳng nhầm,

Số mà như thế chịu phần sứt môi.

Tham lâm hãm địa là người,

Trong hai nách những mồ hôi một lò.

Người mà mắt nhỏ mắt to,

Nhật phùng đào, Sát tương phò mệnh viên.

Âm, Dương lạc hãm không nên,

Trong ngoài Diêu, Kỵ cho nên mắt loà.

Mắt to mắt nhỏ ấy là,

Nhật phùng Không hãy đoán ra rõ mười.

Phủ Phùng Thất sát nực cười,

Mắt to tai nhỏ là người dị nhân,

Gù lưng thôi chớ  phân vân:

Nhật Phùng Kỵ, Sát lại lâm bệnh phù.

Đà la hắc tử (mụt ruồi) điềm to.

Cự môn, Hoá kỵ âu lo hão huyền.

Tham lam Thái tuế một miền,

Trong ngoài cơ trí đảo điên khó đồng.

Triệt, Tuân đóng ở mệnh cung,

Thiếu niên tân khổ lo toan mọi đường.

Cô thần, quả tú mệnh cung,

Tính người cô độc không màng giao du.

Lộc tồn giàu có về sau

Trường sinh, đế vượng ấy màu thiện lương.

Phủ phùng thất sát chí khôn,

Việc làm táo bạo, những toan hơn người.

Giáp Long, Giáp Phụng đôi nơi,

Tả Hữu, Thai Toạ lâu đài thiếu niên.

Kình, Đà giáp với Mệnh viên

                   Hoặc là không, Kiếp bần hàn yểu vong,

Tứ linh: Cái, Hồ, Phượng, Long,

Công danh quyền thês lẫy lừng một khi,

Tấu thư, Hoa cái thanh kỳ,

Mộc Diêu, Hoa cái ắt thì dâm bôn.

Hổ mà gặp Tấu đồng cung,

Công danh thì cử nên công dễ dàng.

Hổ mà gặp phi đồng sàn,

Ấy Hổ mọc cánh mọi đàng hành thông.

Tử, Phủ gặp mã Dần, Thân,

Phù dư mã ắt thành vận lộ đô.

Nhật, Nguyệt địa, Mã tương cờ:

Thư hùng mã ắt tài cơ sang  giàu

Đồng cung Tôn, Mã gặp nhau,

Ấy là chiết tiễn, ngàn đâu thẳng đường.

Mã ngộ Linh, Hoả miếu cung:

Chiến binh mã ấy vẫy vùng nơi nơi.

Tuấn mã: Khốc, Khách hợp bài,

Ngựa kia có nhạc anh hài lên yên.

Thiên bình ngộ mã chẳng nên:

Phù Thi mã ắt tật nguyền chân tay ...

Chiết túc: Đà, Mã sum vầy.

Tử mã: Tuần, Triệt đêm ngày khảm kha.

Mã kia sao Tuyệt một nhà,

Cùng đồ Mã ấy thật là vô phương.

Thiên hình đóng ở Dần cung (cách Hổ ngậm kiếm)

Mệnh, Thân tại đó uy hùng tướng quân.

Hình, Tướng, Ấn, Binh hợp cùng,

Tài kiếm văn võ vẫy vùng nơi nơi

Khúc, Xương, Thương, Sử hợp bài

Phải phòng tai hoạ bên ngoài bên trong

Đẩu quân, Tử, Phủ thong dong

Ở cung quan lộc trùng trùng phước lai

Đẩu gặp Tồn khá tiến tài

Khốc, Hư lạc hãm miệt mài gian truân

Hoả tai, thuỷ ách lắm lần

Bởi Liêm, Sát, Hoả - Diêu cùng Kỵ, Tham

Thiên, Nguyệt đức, Giải thần tàng

Cùng là Quan, Phúc một làng trừ hung

Thái dương đóng chốn Thuỷ cung (Hợi và Tý)

Gặp Kình hay Kỵ: yểu vong hoặc mù

Hạn gặp thôi cũng âu lo

Hoặc đau đôi mắt, hoặc chờ tóc tang (phần cha)

Đà, La, Địa kiếp chiếu phương,

Gặp Linh tinh, nạn bất tường chẳng sai

Khốc, Hư Tý, Ngọ đồng bài

Tiền bần, hậu phú chứ sai lẽ bàn

Không, Kiếp Tỵ, Hợi đồng sàn

Công danh hoạnh phát phải tường cơ vi

Hồng loan cư Tý khá hay

Văn tinh hội chiếu danh ghi ấu thời

Thiên mã nhập Mệnh ấy ai

Tài năng mẫn tiệp người người ngợi ca

Thiên đồng thủ mệnh ấy là

Đổi thay tính khí khó mà chiều nuông

Tràng sinh, Mã, Hỷ đồng cung

Công danh đắc lộ vẫy vùng một phương

Thiên diêu Tài, Mệnh sinh ương

Không mê cờ bạc cũng phương rượu chè

Vũ Khúc: Thân Mệnh khá hay

Nốt ruồi kín ở thân nay phải tường

Thái âm, Kình ở Ngọ cung

Mệnh viên tại đó uy hùng tướng quân

Thái dương cư Hợi Mệnh, Thân

Gặp Khoa, Quyền, Lộc mười phân vẹn mười

Cơ mệnh miếu vượng đa tài

Tâm từ, tính cấp là người hiền vinh

Khôi, Việt miếu địa trường huynh

Gia đình, xã hội hẳn dành ngôi trên

Liêm trinh lạc hãm ưu phiền

Khoa Quyền ở Ngọ ải phiên trọng thần

Mệnh vô chính diệu "Tam Không"

Nhật, Nguyệt giao chiến dự phần công khanh

Thai mệnh đa học thiều thành (Sao Thai ở Mệnh học giỏi mà mệnh không đạt được)

Mộ hợp Thai, Toạ hiển danh anh tài (Sao Mộ đóng ở Tứ mộ lại gặp Tam thai, Bát toạ)

Liên châu Tam hoá phước lai

Kỵ, Đà, Diêu kế hoạ tai bất thường (3 sao đi liền cung lại gặp Mệnh, như Tam Hoá liên châu)

Phong cáo, Thai phụ giao hoan

Ấy người hưởng ấm thừa quang cõi trần

Xương Khúc đóng ở Mệnh Thân

Là phường tao khác xa gần ngợi ca

Địa kiếp độc thủ ác tà

Liêm, Phủ là hạng quỷ ma bất thường (đóng hãm địa)

Thiên khốc, Địa võng tai ương:

Hoá quyền, thiên khốc lại đường minh danh

Khôi, Xương ở mệnh bậc lành,

Hoả, HÌnh đóng mệnh giữ mình lửa than.

Tả, Hữu đắc địa đồng sàn,

Ấy là được cách thanh nhàn hiển vinh.

Thiên quan, Thiên phúc tu hành,

Tứ Sát vượng địa đã đành minh huy.

Hoá kỵ thi rớt lắm khi,

Dương phùng Kiếp sát học gì cho dương,

Sát, Hinh cô độc tinh ươn,

Quan phủ, Thái tuế đến thường công môn.

Binh, Hình nói chẳng hé răng.

Hãm cung phá, Tuế nói bằng sấm vang.

Tham lương những thích ăn sang.

Diêu kỵ tửu sắc lắm đàng ngã nghiêng.

Đế hãm Mão, Dậu, lại thêm

Sát tinh hội hợp cửa Thiền gởi thân.

Hoặc là Thê, Tử, Phúc cung,

Kiếp, Khong, Sát Kỵ hãm vòng địa ưu.

Mấy người phú quý không toàn,

Bởi sao Nhật, Nguyệt hợp đoàn sát tinh. (tức Diêu, Đà, KHông, Kiếp)

Mấy người khó hiển công danh,

Chỉ vì Nhật, Nguyệt đồng tranh Sửu, Mùi.

Mấy người thu ấn triệt hồi,

Bởi sao Không, Kiếp đứng ngồi nào yên.

Phượng Long: Mão Dầu hai miền,

Bảng vàng có thưở đề tên ở đầu.

Quý, Ân Mùi, Sửu rất màu (Ân quang, Thiên quy đóng Sửu hay Mùi)

Đường mây thẳng bước cao sâu cửu trùng.

Cung quan mừng được Đào, Hồng,

Thiên di tốt kỵ Kiếp, Không lâm vào.

Công danh hẹn tuổi tác cao,

Giáp, Liêm, Giáp sát đoán nào có sai. (Giáp Liêm trinh, Thất sát)

Giáp Bát toạ, Giáp Tam thai,

Thiếu niên cũng dự cát đài nghiêng ngang.

Tả, Hữu, Quan, Phúc đồng sàn,

Chính tinh đắc địa rõ ràng lương y.

Những người niên thiếu danh ghi,

Hồng Loan, Bát toạ ở vì Mệnh cung.

Sông Hao, Tham hội đa dâm;

Thiên Đồng ngộ Quý mười phần thanh tao.

Phú quận, Diêu, Mã hợp vào,

Ấy hạng du đãng ai nào muốn thân.

Giáp Thân, mệnh khá rõ phân,

Nhất là Tử, Phủ dự phần cao sang.

Giáp tả Hữu, Khúc Xương, Nhật Nguyệt;

Lộc, Khoa, Quyền, Khôi Việt cùng gia.

Kỵ Liêm, Phá, Vũ xấu xa

Giáp cung Không, Kiếp, Kình Đà sao nên.

Mão đến Tỵ bóng đen Nguyệt hãm,

Gặp Lương càng bi thảm gian truân.

Kìa ai tiền pú hậu bần,

Bởi chưng Không Kiếp chiếu tuần vận sau.

Còn trước khổ sau giàu bởi số,

Thân mệnh, Thân Tham, Vũ đồng hoà.

Hay gì hãm địa Hoá Khoa,

Gặp Không Kiếp ắt quái tà thạch tinh.

Đắc Tý, Ngọ, Sửu, Thân: Hoá lộc

Hội Kiếp, Không là gốc tàn suy.

Phủ ở Tuất, Tử vi ở Ngọ,

Mệnh công khanh áo đỏ đai vàng.

Mệnh, Thiên, Tài, Lộc, (Quan lộc) bốn phương,

Có Tam Hoá hội rỡ ràng tiếng văn.

Cự, Cơ hợp Khúc, Xương, Tả hữu

Ở Mão cung rạng rỡ công danh:

Tân, Kỷ: Nhất; thứ: Bính, Đinh,

Ngoài ra các tuổi dự vinh đôi phần.

Lin, Dương, Tham, Tướng tý cung,

Cùng là Tứ mộ nổi danh tướng tài.

Nguyệt Dậu, Nhật Tỵ lai triều hợp,

Tuổi Đinh, Tân, Bính, Ất phú viên.

Nhà ai phúc lộc vẹn tuyền,

Bởi sao Tử, phủ chiếu miền tam phương.

đất Thìn, Tuất Âm,Dượng (Nhật, Nguỵêt) đối chiếu,

Hoặc Mùi cung, Mão Hợi hợp nhau,

Cách là vượng địa minh châu,

Cung thềm thoả bước sang giàu chung thân.

Tuất Hợi: Nguyệt, Mão, Thìn thì Nhật,

Ngộ Việt, Khôi, Tả Hữu, Khúc Xương,

Ấy người tước lộc giàu sang,

Chớ nên ắt sát, chớ vương Kỵ, Hình.

Lương, Khúc đóng đồng danh Dần, Ngọ,

Hoặc Ngọ: Lương; Khúc toạ Tý cung

Chức quan ngôi đến đài cương,

Công danh rạng mặt, mọi đường minh danh.

Đất Tứ mộ; Hoả, Linh, Tham, Vũ,

Có uy quyền, chớ ngộ Kình dương.

Thân cung Liêm, Tướng một đường,

Anh hùng vũ dũng ai đương được mình.

Sao Cự tú Tuất, Thìn rất kỵ,

Chững chịu điều thị thị phi phi.

Kiếp, Không, Thái tuế suy vi;

Lộc, Mã ngổTiệt ích gì nữa mong.

Lục Châu thưở lầu hồng phải ách,

Bởi Tuế, Tang, Điếu khách cùng hoà.

Tham, Vũ đóng đất Võng, La (Thìn, Tuất)

Gặp loài Tang, Điếu một nhà càng hung.

Cung, Tỵ, Hợi: Khúc Xương tạo thủ

Trở thành hay nếu có Liêm trinh.

Tuất, Thìn Xương Khúc, Đà, Linh

Sát gia mệnh, hạn gieo mình trầm vong

Liêm, Sát, Tỵ, Kiếp, Không tương hội,

Mệnh an nơi Tỵ, Hợi bềnh bồng.

Tử vi sao quý khá mong,

Tuất Thìn gặp Phá lại giòng hư danh.

Xương Khúc, Phá gặp HÌnh, Kiếp sát,

Chốn Mão, Thìn, Dậu, Tuất lao đao,

Tam Hoá: Hoá lộc đứng đầu

Vào cung Tứ mộ như màu khói mây.

Sao Cựmôn hãm ngay Thìn, Tuất,

Nhưng tuổi Tân gặp Lộc cũng hay.

Mấy người hà tiện xưa nay,

Bởi cung Tài, Phúc gặp rầy Kiếp Không.

Khoa hãm địa ở vòng Mệnh vị,

Nghiệp không thành, danh chỉ như mây.

Lộc ngộ Không Kiếp đồng quy,

Cũng là vô dụng, hoá vi cơ hàn.

Tử vi thủ Mệnh  an  ở Ngọ,

Không sát tinh chức có tam công,

Phải là Đinh. Kỷ sanh năm,

Cùng là Ất, Giáp khá mong được nhờ.

Còn Thiên phủ  Tuất cư mệnh vị,

Hợp cát tinh Giáp, Kỷ sanh nhân

Hoả cục vẹn vẻ mười phân,

Tam công chức chưởng, đành phần chẳng ngoa.

Cung Dần: Lộc; Hợi: Khoa đắc cách

Áng công danh hẹn khách anh tài,

Tham lang; Hoả tú liệt hài,

Mộ cung (Tứ mộ) cũng kẻ quyền oai hơn đời.

Cự Lương gặp Khoa nơi Thìn, Tuất,

Có Mệnh viên ấy thất xinh tươi.

Hỡi ai Giáp, Kỷ mấy người,

Gặp sao Thiên khố tiền rời bạc muôn.

Cự Lương nếu đóng cung Mùi, Sửu,

Lại gia thêm Tứ sát long đong.

Tham, vũ đắc địa khá mong,

Bính, Đinh, Thổ cục ấy giòng giấung,

Mấy người  phú quý nan toàn,

Lưỡng Hao, Hoá kỵ Tài, Quan lâm vào.

Mấy người dự bậc sang giàu,

Hợi, Tý: Tướng ấn lại chầu cát tinh.

Mấy người hiếu sắc hoang tình:

Vĩương Khúc đóng bên mình DiêuY,

Mấy người đông trấn, tây trì:

Phá quân, Thiên Việt hợp bầy Kình dương

Lý Quảng tài lành chẳng phong,

Kình dương, Lực sĩtương phùng Mệnh, Thân.

Nhan Hồi chết giữa niên trung,

Bởi Văn Xương hãm ngộ vòng Thiên thương

Ất, Sửu nhân, Mệnh Dần phương,

Mùi cung: Hạn ngộ Xương, Thương, Dương, Đà.

Việt, Linh, Hình ngộ, Lương Cơ,

Hoặc là Nhật, Nguyệt ắt chờ lôi kinh (bị sét đánh)

Trọng Do mãnh liệt đã đành,

Nhờ Tham, Phá đóng ở mình Thân cung,

Ai đương Hạng Võ anh hùng,

Víao Cự tú, Lương, Đồng hợp xung.

Đồng đóng Mệnh ở Thìn cung,

Lương: Tý, Cự, Tuất hợp trong một miền.

Lại thêm Khoa, Lộc, Hoá Quyền,

Ở cung Xung, chiếu là miên Thiên di.

Tuế ngộ Không Kiếp vận suy,

Cửu tinh Mệnh có Tử vi mới lành.

Hạn hành Vũ khúc, Tham tinh,

Tang, Khốc, Thái tuế lâm Thìn, Tuất cung,

Khuất Nguyên xưa phải trầm vong:

Tuổi Canh nay vẫn đề phòng tử sinh.

Xương Khúc mà gặp Liêm trinh,

Ở cung Tỵ, Hợi tân sinh khó tròn.

Tỵ, Hợi Mệnh ngộ Kiếp Không,

Dẫu rằng đắc địa chết vòng trung niên.

Liêm trinh, Thất sát đồng viên,

Ở cung Tỵ, Hợi chiếu miền Thiên thương,

Đặng Thông đói suốt năm trường,

Hạn hành phải sợ tai ương đến mình.

Liêm, Xương, Đà, Vũ đồng danh,

Tuổi Tân, Nhâm, Kỷ ắt dành hoạ tai.

Kình dương, Kỵ, Hoả một bài,

Hãm mà thủ mệnh thật loài ác tinh.

Khúc Xương Mùi, Sửu hợp thành,

Nếu không cát diệu hữu danh vô dùng.

Phá quân, Hình gặp Khúc Xương:

Tuất, Thìn, Mão, Dậu là phường lao đao.

Sát, Phá, Liêm, Tham lâm vào,

Kình, đà, Kỵ ấy tránh nào bạo hung.

Linh, Hoả, Thương, Sứ, Kiếp, Không

Chuyên đường tác hoạ trùng trùng hải kinh.

Ngọ cung Tam Hoá hợp Kình,

Người sinh Bính, Mậu, biên đình nổi  danh.

Lộc cư Nô bộc bực mình

Đông Tây xuôi ngược mới sinh tiền tài,

Dương Linh toạ thủ mệnh ai,

Lại gặp Bạch hổ hoạ tai dao hình.

Mện Vô chính diệu bất minh,

Phụ Bật gia thủ đơn mình ly tống,

Kỵ, Hình, Thất sát tương phùng,

Thiếu niên yểu chiết như giòng Nhân Uyên.

Hạn phùng Diêu, Hổ ưu phiền,

Những loài ác thú chớ nên đến gần.

Hạn hành Cự; Kỵ hung thần,

Phái phòng những chón giang tân mới lành.

Hông, đào, Không, Kiếp đồng danh,

Áy phường yểu tử đã thành một hai.

Kỵ, Đà,Thái tuế hợp bài,

Cảnh đời nào được mấy người thung dung.

Sao Ân, Quy hợp Khôi cùng,

Ở vào Thân Mệnh bảng rồng đề danh.

Khôi Việc hội gặp Khoa tinh,

Chẳng phùng  Không ắt nên danh dễ dàng.

Tham lang, Bạch hổ một dàng,

Tuất, Thìn tuổi ấy sơn lâm lánh đường.

Hãm cung Tang, Tuế, Cơ, Lương,

Ấy người kém phúc, vợ con biếng chiều.

Tuế, Đà, Cự, Kỵ vận nghèo,

Một thân xuống thác lên đèo chẳng yên.

Phù, Hình, Không Kiếp đớn hèn,

Kẻ thù người oán phải nên giữ mình.

Khốc, Hư, Tang Mã chẳng lành,

Hại người, hại của phần đành tai ương.

Kiếp, Không, Hình, Kỵ, Đà, Dương

Gian nan bệnh tật mọi đường khảm kha,

Hoả, Linh long, Mộc một nhà,

Lành mình lửa cháy cùng là nước sôi.

Dậu cung Hình, Tuế cùng ngồi,

Tai bay vạ gió nào người gây ra,

Dần, Thân: sát, Kỵ trùng gia,

Thường chiêu mạ nhục thật là gian truân.

Cơ Lương Lộc Mã đồng cung,

Phú kham địch quốc của dùng kết đâu.

Ngôi cao chức trọng công hầu,

Ngọ cung Thất sát lại chầu cát tinh.

Quyền cao trọng trấn biên đình,

Tử Đồng Lương, Vũ miếu tinh hợp cùng.

Ân, Quý, Khôi Việt, Liêm, Hồng,

Trai cận cửu trùng, gái tắc cung phi.

Hồng, Khôi, Xương, Liêm phù trì,

Sân Rồng dấn bước tên ghi cữu trùng.

Nếu Kỵ giam ở Tý cung,

Làm nghề thuật sĩ ung dung nuôi mình.

Thiên, Nguyệt đức ngộ Đào tinh,

Trai lấy vợ đẹp, gái lành chồng sang.

Việt Khôi, Quyền Lộc khá bàn,

Trong nhà bậc trưởng, ra đàng bậc trên.

Sát phùng phù, Hổ sao nên,

Dã tràng thưở ưu phiền ngục trung.

Dần, Thân, Tham Ngộ Văn Xương,

Vận ông Đồng Phú, Hân Hoàng đem lưu.

Mệnh, Điền: Tuần, Triệt đương đầu,

Tư cơ cha mẹ khô cầu khó mong.

Phủ, Đà, Tuế đóng Tỵ cung,

Thiềm ngôn. loạn ngữ nói rông tháng ngày.

Bệnh phù, Thái tuế dỡ thay,

Ở cung Tứ mộ hợp bày thiên thương

Không Kiếp đóng ở Mệnh phương,

Triệt, Tuần án ngữ tránh đường hoạ tai.

Đào, Hồng, Diêu, Hỉ trong ngoài,

Lại gia Binh, Tướng: gái tai hoang tàng.

 

Thân hung hạn sợ muôn vàn,

Tiền đầu hãm hại một đoàn hung tinh.

Tất sát là loại đáng kinh,

Hãm địa ngộ phải lưu Kình sợ thay.

Dương, Đà, Thất sát khá hay,

Chiếu và Thân, Mệnh tháng ngày khổ đau.

Cự Tham Phá Kỵ gặp nhau,

Bên mình hoạ đến dễ hầu tránh ru,

Tham, Liêm: Tỵ Hợi ngục tù,

Dần, Thân: Tham hội Xương lo tung đình,

Phá phùng Mão, Dậu khá kinh,

Gặp sao Nguyệt đức phúc lành lại qua.

Hình, Kình cư Ngọ đồng gia

Sát, Kiếp lai chiếu ắt là ngục trung,

Mệnh, Đào, Thân lại Hồng Loan;

Hạn gặp Tuế, Kiếp, Phụng hoàng rẽ duyên.

Thanh long, Thai, Hỉ hợp miền,

Vợ ắt thai nghén khá xem phúc nhà.

Kình dương, Hoa cái Ngộ Đà,

Hạn hành năm ấy đậu hoa phải phòng.

Vũ, Cơ: Lộc, Mã, Hỉ, Hồng

Hôn nhân vận ấy đèo bồng thất gia.

Lương, Phục, Vũ ở toà Ngọ vị,

Hạn gặp thì chức trị quản binnh.

Đạu cung Thái tuế, Thiên hình,

Phải phòng vận hạn dễ sinh gông cùm.

Chơi bời du thuỷ, du sơn,

Thiên di gặp Mã hợp chàng Đà la.

Thìn Tuất, Tất sát xem qua,

Kinh, Hình hội ngộ ắt là đảo điên.

Tiểu  hạn Cự, Vũ, Hoá Quyền,

Hoặc Mộ (sao Mộ) Tả Hữu ấy miền thăng vinh.

Việt Khôi, Long Phượng Văn tinh,

Vào thi ắt hẳn bẻ cành quế hoa,

Sát gặp Tồn, Tử đoán ra,

Lại sao Kỵ đóng ắt là tối tăm.

Thiên lương ngộ hoả chớ lầm,

Hại người tổn vật mấy lần hoạ sinh.

Thái dương hãm ngộ hung tinh,

Nếu không kiện tụng, thôi đành tóc tang (bố chết)

Quyền, Hao, Không Kiết chớ màng,

Kẻ trên biếm loại khỏi đàng công danh.

Linh phùng Sát, Phá hạn hành:

Văn Vương xưa cũng giam mình ngục trung.

Nguyệt hãm, Đà; Hổ Tuế xung,

Hãi thay điềm mẹ thoát vòng trần gian,

Xét xem các lẽ luận bàn,

Mệnh, Thân, Vận hạn mọi đàng cho minh.

CHú ý: Khi xem các phú trên đây phải biết rõ mọi sao ở phần trên thì đoán mới tinh tường, khi đoán các sao ở Mệnh, Thần cũng như ở  Vận đại, Tiểu hạn đều có cách cuộc giải như nhau.

Phụ giải: Nam mệnh có Tử vi đắc địa mà gặp nhiều sao sáng sủa thì hưởng phú quý đến cực độ và sống lâu, Nếu Tử Vi mà gặp Tuần triệt thì lúc thiếu thời lao khổ, nhưng về già cũng được sung sướng. Nếu Tử vi mà gặp Không kiếp thì mất hiệu lực, chịu sinh kế lao đao. Tử vi mà gặp Tham Lang đồng cung thì chỉ có tu hành mới được yên thân.

Nữ mệnh gặp Tử vi đắc địa là người có đức độ, vượng phu ích mẫu. Nếu gặp Tuần Triệt thì tình duyên khó khăn, mà lại gặp  Không Kiếp và sát tinh thì là hạng dâm dật, khác chồng hại con, nhưng cũng được no ấm.

Tiện ích Bambu
Tin liên quan
Bạn cần tìm kiếm?
Advert Advert2 Advert3
TextLink
BAO LA VẠN SỰ

Mobile: 0913 290 384  /  Email: tranngockiem57@gmail.com hoặc tuvan@phuclaithanh.com

Copyright © 2014   BaoLaVanSu. Thiết kế và phát triển bởi Bambu®